Tạo “bứt phá” cho kinh tế biển miền Trung

13:25' - 19/12/2017
BNEWS Vùng biển miền Trung chiếm khoảng 2/3 diện tích toàn vùng biển Việt Nam, bao gồm các vùng biển trong phạm vi 200 hải lý, thềm lục địa và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Miền Trung với 14 tỉnh, thành phố từ Thanh Hóa đến Bình Thuận đều có biển với những lợi thế địa chiến lược, vừa có tính độc đáo về điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên biển, ven biển và đảo, bảo đảm cho kinh tế biển ở đây phát triển bền vững và tăng trưởng xanh lam.

Nhưng vùng này đang đối mặt với những thách thức trong dài hạn nên cần phải thay đổi tầm nhìn, xóa bỏ định kiến và xác định đúng ưu tiên phát triển trên nguyên tắc tôn trọng “tính trội, tính đa dụng và tính liên kết” của các hệ thống tài nguyên và hệ nhân văn trong vùng và ở từng địa phương. Nhằm tạo nên sự “bứt phá” cho kinh tế biển theo hướng xanh và bền vững.

Buổi sáng trên bãi triều nôi Ngao xã Hưng Lộc - huyên Hậu Lộc. Ảnh: Trọng Đạt - TTXVN

Những lợi thế vượt trội
Theo báo cáo của Tổng cục Biển và Hải đảo, vùng biển miền Trung chiếm khoảng 2/3 diện tích toàn vùng biển Việt Nam, bao gồm các vùng biển trong phạm vi 200 hải lý, thềm lục địa và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Chính vì thế, miền Trung là khu vực có vị trí chiến lược hết sức trọng yếu trong khu vực Biển Đông và có tiềm năng to lớn đối với sự nghiệp phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền biển đảo của nước ta, cũng như đối với hòa bình và phát triển khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Vùng biển miền Trung chiếm phần lớn diện tích vùng biển ven bờ Tây và phần trung tâm Biển Đông thuộc Việt Nam, có đường bờ biển dài khoảng 1.995km. Vùng biển này có thềm lục địa hẹp chiều ngang và thuộc một phần bồn trũng nước sâu “kiểu đại dương” trong Biển Đông, các đảo ven bờ phân bố rải rác ở các tỉnh và có hai quần đảo ngoài khơi là Hoàng Sa và Trường Sa.

Đây là vùng biển giàu san hô nhất trong Biển Đông với các hệ thống rạn san hô sinh trưởng trên nền núi lửa cổ ở quy mô rộng lớn và đóng vai trò quyết định đối với đa dạng sinh học và nghề cá Biển Đông và là nền tảng cho phát triển kinh tế biển xanh và bền vững ở miền Trung.

Địa hình thềm lục địa miền Trung có độ dốc lớn, có nơi cách bờ chưa tới 3 hải lý đã có độ sâu 50m, cách bờ trung bình 20 hải lý độ sâu khoảng 100m, cách bờ trung bình 30 hải lý độ sâu là 200m.
Địa hình này làm cho các dòng chảy biển khơi bị chi phối bởi dòng chảy từ Biển Đông đã “ép” vào gần bờ nên có nhiều loài cá nổi lớn vào theo, như cá ngừ sọc dưa, ngừ chấm bò, ngừ chấm, ngừ vằn, cá cờ, nhám, nục đỏ đuôi…mà trong môi trường sinh thái biển ven bờ không thể có được.

Điều kiện môi trường tự nhiên biển khơi tiếp cận trực tiếp gần bờ như vậy rất thuận lợi cho phát triển nghề khai thác hải sản biển xa của các tỉnh Nam Trung Bộ, chỉ riêng xuất khẩu cá ngừ năm 2016 đã lên đến gần 600 triệu USD.
Mặt khác, tuyến hàng hải quốc tế Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và các tuyến trong khu vực Biển Đông phần lớn đều đi qua, hoặc lân cận vùng biển miền Trung nước ta. Đây cũng là khu vực phân bố các bồn trầm tích có các cấu trúc dầu khí triển vọng và các biểu hiện băng cháy (khí hydrat metan) ở nước ta, như phần cửa vịnh Bắc Bộ của bồn trũng sông Hồng, bồn Phú Khánh, bồn Hoàng Sa và Trường Sa.

Ven biển miền Trung còn hội tụ các điều kiện làm tiền đề cho xây dựng các cảng biển nước sâu ở các vũng, vịnh ven bờ có độ sâu lớn và ít sa bồi đi kèm khu công nghiệp phức hợp, như vũng Dung Quất, Vũng Áng, vũng Chân Mây, vũng Hàn, vịnh Vân Phong, vịnh Cam Ranh…
Với các đặc trưng nêu trên, vùng ven biển miền Trung có vị trí rất quan trọng, là cửa mở thông thương ra biển và có thể hỗ trợ cho hội nhập kinh tế nội khối ASEAN thông qua Hành lang kinh tế Đông - Tây. Nhiều vịnh, vũng có thể xây dựng thành các cảng biển nước sâu tiềm năng nhất ở nước ta, tạo tiền đề phát triển các khu kinh tế ven biển theo mô hình: cảng - đô thị - biển như các khu: Nghi Sơn, Vũng Áng, Dung Quất, Chân Mây, Vịnh Hàn, Nhơn Hội, Vân Phong, vịnh Nha Trang, Cam Ranh.
Vùng ven biển miền Trung cũng là nơi có triển vọng du lịch rất lớn, tập trung vào du lịch biển - đảo, du lịch sinh thái, du lịch vùng cát mà đến nay gần như chưa “đánh thức” tiềm năng độc đáo này. Vùng ven biển này cũng tập trung các mỏ khoáng sản, như cát thủy tinh, sa khoáng titan - ziacon, sa khoáng vàng, sắt nội sinh, vật liệu xây dựng.

Tiềm năng phát triển thủy sản cả nuôi trồng và đánh bắt hải sản đều rất đáng kể. Ngoài ra, tiềm năng năng lượng gió biển và sóng biển cũng rất đáng kể.

Phát huy lợi thế, khắc phục yếu thế, thay đổi tư duy và tầm nhìn, đổi mới cơ chế chính sách, chắc chắn sẽ đem lại cho vùng ven biển và biển miền Trung “trang trang cồn cát” với cái đói nghèo đeo đẳng và chịu nhiều hậu quả của chiến tranh, một diện mạo mới trong phát triển kinh tế thời gian tới.

Cơ hội và thách thức
Các cơ hội chính để kinh tế biển miền Trung tiếp tục phát triển, tạo đột phá và thúc đẩy tăng trưởng xanh lam, hiệu quả và bền vững. Đó là tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Đảng và Chính phủ để thực hiện thành công các mục tiêu đề ra của Chiến lược Biển Việt Nam đến năm 2020, đặc biệt là các định hướng bảo vệ môi trường biển, đảo và vùng ven biển; phòng, chống thiên tai biển khu vực miền Trung.

Đây là nền tảng và điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế-xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững miền Trung.
Để phát triển kinh tế biển miền Trung bền vững theo hướng tăng trưởng xanh và hiệu quả, trong khi vẫn bảo tồn được tính bền vững của biển, vùng này vẫn còn đối mặt với không ít thách thức, khó khăn.

Cụ thể như nhận thức về vai trò, vị trí của biển, kinh tế biển và phát triển bền vững biển, đảo của các cấp, các ngành, các địa phương ven biển và người dân còn chưa đầy đủ.

Quy mô kinh tế biển còn nhỏ bé, chưa tương xứng với tiềm năng; cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý; chưa chuẩn bị điều kiện để vươn ra vùng biển quốc tế; quản lý tổng hợp và thống nhất về biển, đảo vẫn còn “lúng túng” đối với cả những người thực hiện và nhà hoạch định chính sách; chạy theo lợi nhuận trước mắt, ngắn hạn trong phát triển vẫn còn khá phổ biến.
Cách tiếp cận “nóng“ trong khai thác tài nguyên biển đang là hiện tượng phổ biến ở các lĩnh vực kinh tế biển. Chẳng hạn như chú trọng nhiều đến sản lượng, số lượng, ít chú ý đến chất lượng và lợi ích lâu dài của các dạng tài nguyên, làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn lợi ích trong sử dụng đa ngành tài nguyên và bảo vệ môi trường vùng ven biển, biển và đảo. Môi trường biển tiếp tục biến đổi theo chiều hướng xấu, đa dạng sinh học biển và nguồn lợi thuỷ hải sản giảm sút gây hậu quả trước mắt và lâu dài.

Ngày càng nhiều chất thải không qua xử lý từ các lưu vực sông và vùng ven biển đổ ra biển, một số khu biển ven bờ bị ô nhiễm, hiện tượng thuỷ triều đỏ xuất hiện ngày càng nhiều với quy mô rộng.

Các hệ sinh thái biển, ven biển và đảo-“nguồn vốn tự nhiên” cho tăng các lợi thế chiến lược cho kinh tế biển miền trung phát triển bền vững trưởng xanh lam ở biển miền Trung, đang bị suy thoái nghiêm trọng và nằm trong tình trạng rủi ro cao.
Do đó, theo phân tích của Phó Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Chu Hồi, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam, giảng viên cao cấp Đại học Quốc gia Hà Nội: Cần phải thay đổi tầm nhìn chiến lược để kinh tế biển miền Trung “bứt phá” theo hướng “xanh lam”.

Miền Trung phải được nhìn nhận như một vùng “đất hứa” của các dự án phát triển và phải gánh trên vai sứ mạng “tiên phong” trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo Tổ quốc. Với đường lối đổi mới của đất nước, miền Trung bằng con đường phát triển kinh tế biển trong bối cảnh cuộc “cách mạng công nghiệp 4.0” và đa dạng hóa loại hình du lịch, dịch vụ hiện đại, cùng với phát huy các di sản văn hóa đã và sẽ tự khẳng định vị trí quan trọng của mình và từng bước góp phần to lớn đưa vùng này vào thế phát triển hiệu quả và bền vững.
Thế đứng tự nhiên và động lực xã hội đặc thù tạo ra một miền Trung có nhiều lợi thế so sánh trong phát triển, cùng với tiềm năng phát triển cảng biển nước sâu sẽ chuyển “yếu thế” thành lợi thế, kết hợp phát huy lợi thế hiện có để nhanh chóng chuyển thành lợi ích của vùng và của đất nước.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế càng được đẩy mạnh, tình hình Biển Đông ngày một phức tạp thì vị thế “đầu tàu” của miền Trung trong tương lai lại càng được củng cố và nâng cao.

Trong đó, đầu tư phát triển tuyến đường ven biển miền Trung để nối kết thành chuỗi đô thị ven biển được xem là khâu “đột phá” trong nỗ lực liên kết vùng, phá thế cô lập về kinh tế giữa các tỉnh trong khu vực, tạo cho miền Trung phát triển kinh tế biển đa dạng với quy mô lớn, góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng biển đảo.
Bảo tồn và phát triển phải là trục chính trong chiến lược phát triển kinh tế miền Trung trong dài hạn, với ưu tiên phát triển các ngành nghề kinh tế dựa vào bảo tồn, như nghề cá giải trí, nuôi xuất khẩu cá cảnh biển, du lịch sinh thái biển (bao gồm cả du lịch lặn, du lịch văn hóa - khảo cổ biển).

Xây dựng hình ảnh và thương hiệu cho miền Trung thông qua ưu tiên cao cho phát triển du lịch với tư cách là một “ngành kinh tế tổng hợp“, đòi hỏi cơ chế phối hợp liên ngành, liên vùng trong quản lý và kiểm soát phát triển. Đổi mới căn bản cơ sở hạ tầng dịch vụ cho phát triển kinh tế biển xanh như cảng biển, bến cá, bến tàu du lịch theo hướng hiện đại và bền vững cũng là hướng và giải pháp ưu tiên trong thời gian tới.
Ngoài ra, phải bảo tồn, giữ gìn và tôn tạo cảnh quan đặc hữu của các hệ thống cồn đụn cát ven biển để duy trì một “con đê tự nhiên” ngăn cản nước biển dâng, bảo vệ bờ biển khỏi xói lở và phát triển các khu du lịch vùng cát đẳng cấp quốc tế. Đối với các lợi thế chiến lược cho kinh tế biển miền trung phát triển bền vững 29 các đảo, huyện đảo cần phải chú ý đến 4 thứ quan trọng đã và đang mất.

Đó là mất các hệ sinh thái tiêu biểu, mất rừng trên đảo, mất nước trên đảo và mất đất. Muốn phát triển kinh tế đảo bền vững với tư cách là một lĩnh vực kinh tế đặc thù, trước hết cần phải “đòi lại” cho được 4 thứ đầu vào đã mất nói trên.
Để chuyển đổi kinh tế biển miền Trung từ mảng “nâu” sang “xanh lam” theo hướng phát triển bền vững, các tỉnh và toàn khu vực cần phải tuân thủ các nguyên tắc thực thi hiệu quả quản lý nhà nước tổng hợp, tiến tới thống nhất quản lý nhà nước đối với biển, đảo.

Cùng với đó là sử dụng hợp lý, tiết kiệm tài nguyên biển, vùng ven biển và đảo; giảm thiểu suy thoái và ô nhiễm môi trường biển, vùng ven biển và đảo, đặc biệt từ nguồn đất liền; thực thi pháp luật và kiểm soát hiệu quả môi trường biển và vùng ven biển; tăng cường các hoạt động quan trắc – cảnh báo môi trường biển - ven biển.

Đặc biệt là áp dụng các công cụ kinh tế và quy hoạch, quy hoạch không gian biển để tổ chức lại lãnh thổ kinh tế biển miền Trung dựa vào hệ sinh thái. Gắn phát triển kinh tế biển với bảo đảm an ninh, quốc phòng trong tình hình mới.

>>>Tầm quan trọng của kinh tế biển xanh trong phát triển của thế giới và khu vực

Tin liên quan


Tin cùng chuyên mục